{jcomments on}alt

Tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh của Cha tôi, tay mang cái túi xách đựng quần áo và những vật dụng cần thiết, cùng với vài người bạn sĩ quan trong quân đội đi ra trường Tabert ngoài Sài Gòn, trình diện vào 8 giờ sáng hôm đó, họ bảo nhau đi học vài tuần là về. Vài tuần trôi qua, rồi 2, 4, tuần…người ta nhốn nháo chạy ra nơi người nhà trình diện nhưng không thấy một ai, hỏi thăm tin tức từ cơ quan chính quyền họ bảo không biết. Từ đấy những người vợ bắt đầu chạy đôn đáo tìm chồng…Ở đâu có tin tức về người học tập cải tạo là họ tìm cách đi đến hỏi han, bằng mọi cách…

Nhưng tất cả đều mịt mù, không còn hy vọng. Cuối cùng họ biết ra người nhà của họ đang bhọc tập cải tạo, phải học thời gian bao lâu không biết trước, chỉ biết khi nào cải tạo tốt sẽ được về. Thỉnh thoảng họ nhận được thư thăm hỏi hoặc nhắn gọi thăm nuôi từ người học tập. Người phụ nữ bấy giờ lại thể hiện vai trò của con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. Có những chị em phụ nữ gan lì, kiên cường bền lòng chặt dạ. Nhưng cũng có những người yếu đuối, sớm bỏ cuộc. Không phải câu chuyện chờ đợi nào cũng kết thúc có hậu, cũng có ít nhiều chuyện không như ý làm cho người ta đau lòng.

Chuyện thứ nhất

Năm 1998, khi ấy tôi còn sinh sống ở Sài Gòn, việc làm lúc đó của tôi là thêu may gia công cho một cửa tim may gần nhà thờ Bà Chiểu. Nơi đây tôi đã có vài lần gặp mặt một người đàn ông dáng cao to, da dẻ trắng xanh, hao hao như một người nước ngoài, ông ta có giọng nói thật nhẹ mang âm hưởng của người miền Bắc sống tại Sài Gòn đã lâu. Được bà chủ giới thiệu là thầy giáo dạy tiếng Anh cho con gái của bà, và ít lâu sau đó bà kể cho tôi nghe về cuộc đời của thầy…Trước 30/4/75 ông là một viên chức của Đài THVN, đã có vợ và hai đứa con. Là một công chức hạng A thời đó với thừa khả năng chăm sóc gia đình, ông còn là một kỹ sư tốt nghiệp từ Đại Học nước ngoài về. Gia đình ông đã có thời gian hạnh phúc, sung túc tưởng chừng như không có gì làm tan vỡ được. Cho đến tháng tư 75, biến cố lịch sử đã làm thay đi biết bao số phận con người, trong đó có gia đình ông. Hai chữ ngụy quyền được kèm theo tên của ông, ông được gởi đi học cải tạo để tẩy não vì công việc của ông trước đây liên quan đến truyền đạt văn hóa tư bản, đồi trụy. Nhà cửa bị tịch thu, tài chính bế tắt, cuộc sống lâm vào cảnh khốn khó, dự trù đi học vài tuần lễ để rồi biệt tăm, ông không biết gia đình của ông phải làm gì để tồn tại. Bị tạm giam gần một năm trong rừng không ánh sáng, thức ăn không đủ dinh dưỡng, ông bị bại liệt nằm một chỗ. Trước khi bị chuyển ra Bắc ông được cho phép thăm nuôi. Bà đến thăm ông đã mang cho ông nhiều thứ cần thiết, quí nhất là 300 viên thuốc vitamin B1, nhờ nó giúp mà sau nầy ông đi lại được, và cuối cùng bà xin ông ký tên vào tờ giấy ly dị! Những năm ở tận biên giới Bắc Việt xa xôi, Mẹ ông thỉnh thoảng mang đồ đạc lỉnh kỉnh ra thăm ông. Khi ông học tập tốt trở về, phải sống với Mẹ và nhờ sự giúp đỡ của người thân, bạn bè. Riêng người vợ ly dị của ông bấy giờ đã kết hôn với một cán bộ nhà nước.

Chuyện thứ hai

Nhân vật chính của đoản chuyện nầy là tôi. Trước 75, tôi đã có tình yêu với một người bạn đồng nghiệp. Trong mắt tôi anh là người đàn ông tốt, ai cũng ngợi khen chúng tôi xứng lứa vừa đôi, tôi đang lặn ngụp với hạnh phúc trong tầm tay mình. Nhưng, gia đình của anh ở tận miền Tây, họ không có nhiều thiện cảm với con gái Sài Gòn như tôi, vì vậy chuyện của chúng tôi chưa tiến tới được. Rồi tháng 4/75 đến, là giáo chức biệt phái nên anh phải lên đường học tập như các chiến binh khác. Tôi ngỡ ngàng trước những biến động đau thương nầy. Một người Cha ngụy quyền bị đi học tập, một người yêu cũng biến mất, tôi đã từng theo những người phụ nữ khác chạy lăng xăng tìm Cha, tìm người yêu. Lúc đó đối với người nhà của anh, tôi không biết vai trò của mình là gì? Có thể gia đình anh chỉ xem tôi là một người bạn gái của con trai mình, người mà họ chưa từng biết mặt. Bản thân tôi cũng như gia đình tôi lúc bấy giờ bị xem là thành phần không tốt, chúng tôi sống trong nỗi lo sợ bị đuổi khỏi thành phố, có thể phải bị đi đến vùng kinh tế mới đâu đó, vì có như vậy thì người thân của chúng tôi mới có thể trở về đoàn tụ với gia đình. May mà Giám Đốc cơ quan của tôi là người tốt, thông cảm hoàn cảnh của tôi nên ông đã chấp nhận cho tôi được ở lại làm việc. Nhờ có giấy tờ chứng nhận là công nhân viên nên gia đình tôi được ở lại thành phố, tiêu chuẩn gạo và nhu yếu phẩm được cấp phát đầy đủ. Vừa lúc ấy, người nhà của anh cho biết anh đã chuyển nơi học tập về tận miền đất mũi, hỏi tôi có muốn đi thăm nuôi không? Tôi phân vân vì không thể rời bỏ công việc và trách nhiệm gia đình. Lý lịch tôi đã có một dấu đen, nếu có thêm một dấu nữa liệu việc làm của tôi có bị ảnh hưởng không?

Xin lỗi anh! Trong một khoảnh khắc nào đó tôi phải nói lời tạm biệt với anh. Ngày anh trở về đoàn tụ gia đình, tôi cũng không đến với gia đình của anh…Tôi biết mình đã không xứng đáng với tình yêu của anh. Thật lòng mong anh hãy tha thứ cho tôi.

Chuyện thứ ba

“Alo...có phải là chị Tư không?"

"Dạ chào bác Năm, là cháu đây, bác có khỏe không?"

"Tôi khỏe chị ạ, mấy hôm trước bị vấp ngã, chảy máu đầu phải vào bệnh viện cấp cứu đấy..."

"Vậy sao?"

"Hôm nay tôi đã đỡ rồi, nhớ các bác ở nhà dưỡng lão quá nên gọi hỏi thăm.”

Đó là bác Năm, năm nay bác đã hơn 80 tuổi, bác đã vài lần bị stroke nên đôi chân của bác đi không vững vàng lắm, bác đã có ý muốn vào nhà dưỡng lão nơi tôi làm việc để ở nhưng hiện tại không còn chỗ trống, vì vậy thỉnh thoảng bác vẫn gọi đến thăm. Đã có lần bác kể cho tôi nghe về người vợ yêu của bác.

Tôi được biết trước năm 1975, bác là một sĩ quan cấp Tá trong quân đi tại VN. Sau biến cố 4/75, bác cũng phải vào tù cải tạo như bao người. Với cấp bậc của bác, họ đã đẩy bác ra tận Lào Cai. Một năm bác Năm gái ra tận miền Bắc xa xôi thăm Bác, đem theo một gánh những thứ cần thiết mà bác trai căn dặn trong thư gởi về thăm nhà. Bác gái là một phụ nữ nhỏ nhắn ốm yếu, đôi vai bác oằn cái gánh trên vai, phải đi bộ qua nhiều chặn đường dài mới tới tận lán trại nằm sâu trên vùng cao nguyên lạnh giá, vậy mà giờ thăm nuôi chỉ được một giờ đồng hồ. Hai ông bà gặp nhau mừng vui trong nước mắt, không biết phải mở lời từ đâu vì có quá nhiều chuyện muốn nói. Lúc ấy người cán bộ quản giáo cứ đi qua lại trước mặt hai ông bà, hắn nhìn chăm chăm vào ngón tay đang đeo chiếc nhẫn cưới bằng vàng y của bà, hắn vội nói, "Bà có muốn ở lại với ông đêm nay không? Nếu muốn thì đưa cho tôi chiếc nhẫn của bà, suy nghĩ nhanh cho tôi biết". Bà thảng thốt nhìn ông, ông mừng rỡ nắm tay bà nói: "Đưa cho anh ta đi, rồi ở lại đây một đêm mình nhé, ngày mai biết anh có còn sống sót để trở về không?" Nhưng bà buồn thảm nhìn ông, "Rồi tôi sẽ đến thăm ông nữa mà, vốn liếng chỉ còn bấy nhiêu, có chút tiền bạc thăm ông cũng ph i vay nợ đấy mình ạ, mình còn phải lo cho các con." Ông cố nài nỉ mãi khiến bà xiêu lòng, nhưng người cán bộ đã bỏ đi. Rồi một năm, hai năm…trông hoài mà không thấy bà đến thăm ông, lâu lâu thằng con cả mang đồ ra thăm nuôi, ông có hỏi mẹ mầy đâu. Nó nói mẹ bận buôn bán ở nhà. Và mãi 7, 8 năm sau ông mới được trả về, ra tù cũng không thấy bà đến đón, hỏi thằng con thì nó bảo mẹ ở nhà, ông tức giận lằm bằm, "Chắc là mẹ mầy đã bỏ bố con mình rồi phải không!!!". Thằng cả cứ lầm lũi đi, dẫn ông vào căn nhà nhỏ nằm sâu trong hẻm. Vừa bước chân vào nhà, nó chỉ lên cái tủ thờ nằm giữa nhà, "Mẹ của con ngồi trên đó bố ạ!" Ông thảng thốt nhìn lên di ảnh của Bà, thì ra sau chuyến đi thăm nuôi đó, Bà ngã bệnh nặng và qua đời. Ông bt khóc, nhớ my câu thơ, "Không chết người đi tù cải tạo, mà chết người vợ hiền yếu đuối anh yêu!”

Nói đến chữ yêu thì phải có chút lãng mạn trữ tình, xin gởi đến các bạn đoạn thơ mình đã lượm lặt được, của tác giả không tên, thay cho lời cuối:

Dựa vai anh mà khóc

Có hoa nào mà không tàn úa?
Có hạnh phúc nào sẽ chẳng hư hao?
Có cuộc đời nào không xuống thấp lên cao?
Có môi nào chưa run vì tiếng nấc?
Có những khoảng cách dù gần trong gang tấc,
Vẫn hình như trăm ngàn dặm xa xôi.
Và có những chiều em cảm thấy đơn côi,
Hãy về đây, dựa vai anh mà khóc…

 

CN/12